I/Vị trí đoạn trích: Lần thứ hai rơi vào cảnh lầu xanh Kiều đã may mắn gặp Từ Hải. Từ Hải không những đã giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh mà còn đưa nàng từ vị trí thấp hèn, tủi nhục lên hàng “mênh phụ phu nhân”. Từ đây, nàng bước lên địa vị như một “quan toà” thi hành công lý cho chính mình “ơn đền oán trả” phân minh. Đoạn thơ trích miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa cho những người đã từng cưu mang giúp đỡ nàng, đồng thời cũng muốn trừng trị thích đáng những kẻ đã từng nhẫn tâm hại nàng.
Đoạn trích gồm 2 phần : -12 câu đầu : Báo ân (đền ơn Thúc Sinh) -22 câu tiếp theo : Báo oán (Cuộc đối đáp giữa Kiều và Hoạn Thư)
II/Đọc và hiểu văn bản :
1/Kiều báo ân : Được mời tới nơi Kiều xử án, trước những “gươm lớn giáo dài” Thúc Sinh vô cùng kinh hãi :
“Cho gươm mời đến Thúc Lang Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”
Thần sắc chàng họ Thúc như chẳng còn chi : Mặt xanh “như chàm đổ”, người thì cứ run lên bước đi không muốn nổi : “mìng dường dẽ run” là như thế. Hình ảnh ấy đã mô tả đúng tính cách của chàng ta-một thư sinh nhu nhược- Trông thật tội nghiệp. Nhìn thấy hình ảnh này Kiều đã không khỏi động lòng trắc ẩn. Lời lẽ của nàng dành cho họ Thúc là những lời xuất phát từ một tấm lòng tri ân sâu sắc. Chính chàng là người đã đưa nàng ra khỏi cảnh bùn nhơ. Cùng với chàng, Kiếu cũng đã có những tháng ngày hạnh phúc trong một cuộc sống gia đình. Quả là “nghĩa nặng nghìn non”. Nàng đã dùng nhiều từ Hán Việt : “nghĩa, chữ tòng, cố nhân, tạ lòng…" lại dùng cả điển tích “Sâm Thương” thật trang trọng để diễn tả lòng biết ơn của mình.
“Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non, Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không ? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”
Cho dù vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều đã lâm vào kiếp tôi đòi nhưng nàng hiểu nỗi khổ của mình không phải là lỗi của Thúc Sinh mà thủ phạm chính là Hoạn Thư. Kiều thông cảm cho hoàn cảnh của chàng. Vì thế mà dẫu có đền ơn bao nhiêu cũng không sao đền đáp cho xứng đáng :
Trong khi nói vơi Thúc Sinh, Kiều đã nhắc đến Hoạn Thư. Nói đến tiểu Thư họ Hoạn, ngôn ngữ Kiều thật bình dị. Nàng dùng cả những thành ngữ quen thuộc nơi dân gian “ Kẻ cắp gặp bà già. Kiến bò miệng chén”, những từ thuần Việt thật dễ hiểu :
“Vợ chàng quỷ quái tinh ma, Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau. Kiến trong miệng chén bò lâu, Mưu sâu thì hoạ cũng sâu mới vừa”.
2/Kiều báo oán: Vừa ân cần thâm trọng từng lời với Thúc Sinh bao nhiêu thì khi tiếp Hoạn Thư lời nói, hành động của Kiều đã ngoặt ngay lại với những lời lẽ châm chọc, biểu thị thái độ mai mĩa cay độc :
“Thoạt trông nàng đã chào thưa: Tiểu thơ cũng có bây giờ tới đây ?”
Thoạt nghe là những lời lẽ như khi nàng còn là “Hoa nô” trong nhà họ Hoạn. Vẫn một điều”chào thưa”, hai điều “Tiểu thư” cứ như chưa có sự thay bậc đổi ngôi gì. Điều này càng làm cho Tiểu thư họ Hoạn thêm kinh sợ. Từng lời của Kiều kèm theo sự đay nghiến. Từng câu thơ dằn ra từng tiếng với các từ được lặp lại như nhấn mạnh thêm : “dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái…” Cách nói này thật phù hợp với Hoạn Thư, một kẻ vốn nham hiểm “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong han hiểm giết người không dao”. Điều này cho thấy Kiều quyết tâm trả thù, trừng trị Hoạn Thư một cách xứng đáng như nàng đã báo trước với Thúc Sinh :
“Kiến trong miệng chén bò lâu Mưu sâu thì hoạ cũng sâu mới vừa”
3/Xử trí của Hoạn Thư: Trước thái độ “vồn vã và lễ phép” của Kiều, Hoạn Thư quả thật đã vô cùng kinh sợ. Nhưng vốn là kẻ khôn ngoan, giảo hoạt, Hoạn Thư đã kịp thời trấn tỉnh để liệu kế thoát tội:
“Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Cúi đầu dưới trướng liệu điều kêu ca. Rằng: Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Nghĩ khi ra các viết kinh, Với khi dứt cửa niệm tình chẳng theo. Lòng riêng riêng những kính yêu, Chồng chung chưa dễ ai chìu cho ai. Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể ơn bài nào chăng ?”
Để “kêu ca” cho mình, trong tám câu ngắn gọn nhưng Hoạn Thư đã trình bày bốn luận điểm : Một : Tôi là đàn bà nên việc ghen tuông là chuyện thường tình. Hai: Hãy nghĩ lại tôi đã tốt như thế nào khi cho cô ra các viết kinh thậm chí khi cô bỏ trốn (ăn cắp đồ nhà tôi) tôi cũng chẳng cho người theo bắt lại (kể công). Ba: Tôi với cô cùng cảnh chồng chung, nếu cô ở vị trí tôi thì chắc gì “ai đã nhường cho ai”. Bốn: Nhưng dẫu gì thì tôi cũng có lỗi với cô, bây giờ tôi chỉ mong vào lượng khoan dung "trời bể"của cô ... tùy cô tha giết mặc lòng(vừa nhận tội, vừa tâng bốc).
4/ Kiều tha bổng Hoạn Thư : Sôi sục lòng thù hận, quyết trả cái nhục “tôi đòi” nhưng trước những lời kêu ca "chí tình chí lý" của Hoạn Thư, Kiều đã phải đổi thái độ :
“Khen cho thực đã nên rằng, Khôn ngoan rất mực nói năng phải lời. Tha ra thì cũng may đời, Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen”.
Kiều đã phải thừa nhận tài ăn nói của Hoạn Thư là “khôn ngoan rất mực, nói năng phải lời”. Những lập luận của Hoạn Thư đã khiến Kiều bối rối, khó xử. “Tha ra thì cũng may đời . Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen” nên cuối cùng tuy có ý răn đe nhưng Kiều đã khoan dung độ lượng “Dã lòng tri quá thì nên. Truyền quân lịnh xuống trướng tiền tha ngay”. Đúng ra cũng phải thấy rằng không chỉ vì Hoạn Thư “gỏi mồm mép” mà được thoát chết. Ở đây cũng phải kể đến tấm lòng khoan dung độ lương và nhân hậu vốn có của Kiều. Nàng ắt nghĩ : Hoạn Thư đã hạ mình nhận tội và có ý xin tha thì nàng cũng sẵn sàng cư xử theo truyền thống nhân gian “thượng võ” : “Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại”.
5/Tính cách của Kiều và Hoạn Thư : -Kiều là một phụ nữ có lòng nhân hậu và độ lương. -Hoạn Thư là một kẻ “khôn ngoan rất mực”, biết ăn nói. GHI NHỚ: Qua ngôn ngữ đối thoại, tác giả đã làm nổi bật tính cách nhân vật Tuý Kiều và nhân vật Hoạn Thư. Thuý Kiều báo ân, báo oán thể hiện ước mơ thực thi chính nghĩa và công lý theo quan điểm quần chúng “ Ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ”. [Blog Thầy Giang]
Thông điệp:
--*--{ Nếu thấy hay, hãy chia sẽ cho bạn bè mình}--*--