Tiêu đề: Hittite - Nền văn minh bị quên lãng Thu Jan 08, 2009 11:07 am
Người Hittite là một nhóm người cổ nói ngôn ngữ Ấn-Âu. Vương quốc của họ có trung tâm là Hattusa ở phía bắc trung Anatolia từ thế kỷ 18 TCN. Vào thế kỷ 14 TCN, đế quốc Hittite phát triển mạnh, bao gồm Anatolia, tây bắc Syria đến tận Ugarit, và vùng thượng Lưỡng Hà. Người Hittite nổi tiếng với khả năng xây dựng và sử dụng chiến xa. Họ là những người đầu tiên biết chế tạo đồ dung bằng sắt vào thế kỷ 14 TCN.
Hattian và Hittite: Người Hittite đã đến Anatolia từ trước năm 2000 TCN. Quê hương của họ vẫn là điều gây nhiều tranh cãi, tuy nhiên có một điều hiển nhiên là vào thiên niên kỷ thứ 4 và 3 TCN những người nói tiếng Ấn-Âu sống ở nơi mà ngày nay là Ukraine. Người Hittite và các bộ tộc khác đến từ phía bắc có thể đã vượt qua biển Caspian. Cư dân chủ yếu ở trung tâm Anatolia lúc này là những người nói tiếng Hattic. Ở đây cũng có cả những người có nguồn gốc Assyria. Phải mất nhiều thời gian người Hittite mới tổ chức được chính quyền của mình. Trong vài thế kỷ có những nhóm người sống ở các thành phố khác nhau. Sau đó những nhóm mạnh hơn ở Boğazköy đã thành công trong việc hợp nhất và chinh phục các vùng đất rộng lớn khác ở Anatolia để hình thành nên vương quốc Hittite. Vào khoảng 2000 TCN, Hattusa trở thành trung tâm của vương quốc, nơi cư trú của những người có nền văn hóa riêng biệt nói thứ tiếng không phải Ấn-Âu. Từ Hattic được dùng để chỉ ngôn ngữ này, ngôn ngữ chủ đạo của vương quốc trong 6 đến 7 thế kỷ tiếp theo.
Thuở sơ khai của vương quốc: Lịch sử Hittite được biết đến thông qua các bản khắc vào thế kỷ 17 TCN được chép lại vào thế kỷ 14 hay 13 TCN. Những bản khắc này là của Anita, con trai Pithana vua của Kussara hay Kussar , kể về những chiến công của cha mình khi chinh phục thành bang láng giềng Neša (Kanesh). Nhưng phần chính là nói về Anita, người đã tiếp tục công cuộc chinh phục Hattusa và Zalpuwa (Zalpa).
Thời kì vương quốc cũ: Đế quốc Hittite được thành lập bởi Labarna I hay Hattusili I (vẫn có những cuộc tranh luận xem đây có phải cùng một người hay không). Hattusili đã đánh đến tận vương quốc Yamkhad ở Syria nhưng không hạ được thủ đô Aleppo. Mursili I đã kế tục Hattusili I và chiếm được thành phố này. Việc quân Hittite tiến vào Syria và Assyria có thể là nguyên nhân cho sự ra đời chữ hình nêm ở Anatolia vì hệ thống chữ viết của người Hittite hoàn toàn khác hệ thống chữ viết của những kiều dân Assyria trước đây. Mursili tiếp tục tiến vào Lưỡng Hà, thậm chí đã cướp phá Babylon vào năm 1595 TCN ( mặc dù Mursili không sát nhập Babylon vào lãnh thổ của mình mà giao nó cho đồng minh Kassite). Tuy nhiên cuộc chinh chiến kéo dài đã gây ra rối loạn, đưa thủ đô vào tình trạng vô cùng rối ren. Mursili bị ám sát không lâu sau khi ông trở về và Hittite rơi vào hỗn loạn. Người Hurrian sống ở các dãy núi chạy theo sông Tigris và Euphrates đã tấn công Aleppo. Hittite rơi vào thời kì suy yếu, đánh mất quyền kiểm soát một số khu vực. Vị vua tiếp theo là Telepinu (khoảng 1500 TCN) giành một vài chiến thắng ở vùng tây nam, sau đó kết đồng minh với Hurrian để chống lại Mitanni.
Thời kì vương quốc giữa: Telepinu là vị vua cuối cùng của thời kì vương quốc cũ. Thời kì vương quốc giữa kéo dài trong 70 năm trải qua các đời vua: •Alluwamna •Tahurwaili •Hantili II •Zidanta II •Huzziya II •Muwatalli I Thời kì này không được nhắc nhiều trong lịch sử, nó kết thúc vào năm 1430 TCN với sự lên ngôi của Tudhaliya I.
Thời kì vương quốc mới: Đế quốc Hittite bước ra khỏi màn sương mù mịt dưới triều vua Tudhaliya I. Ông đã kết đồng minh với Kizzuwatna, đánh bại Hurrian và Mitanni, bành trướng tới tận Arzawa. Tuy nhiên kẻ thù của vương quốc từ mọi hướng đã tấn công Hattusa và san bằng nó. Đế quốc được khôi phục dưới triều vua Suppiluliuma I (khoảng 1350 TCN). Ông đã chinh phạt Aleppo, Mitanni và đánh bại Carchemish. Các con trai của ông đã tiến hành các cuộc chinh phạt khác. Với việc Babylon còn nằm trong tay Kassite, Assyria chỉ vừa giành độc lập nhờ sự sụp đổ của Mitanni, Suppiluliuma I có đủ sức mạnh để gây sức ép lên Ai Cập. Hai nước dự định kết làm đồng minh thông qua cuộc hôn nhân của con trai Suppiluliuma I và di sương của Ai Cập Ankhesenpaaten (do hoàng đế Ai Cập Tutankhamun chết). Nhưng người con này đã bị ám sát và liên minh không được thành lập. Sau Suppiluliuma I, con trai cả là Arnuwanda II lên ngôi nhưng chỉ ở ngôi được một năm thì mất. Con trai thứ là Mursili II trở thành vua (ngoài lề chút nhưng những ai đọc “Dòng sông huyền bí” đều biết vị vua này ). Sau khi bình ổn phía đông, Mursili II tiến về phía tây, tấn công Arzawa và Millawanda ở miền duyên hải của Ahhiyawa. Nhiều học giả cho rằng Millawanda ở Ahhiyawa chính là Miletus và Achaea trong lịch sử Hy Lạp, mặc dù vẫn còn một số nhỏ phản đối.
Đế chế Tân Hittite
Trận chiến Kadesh: Con trai cả của Mursili II là Muwatalli II nối ngôi. Dưới triều vua này đã nổ ra trận đánh chiến xa vĩ đại nhất giữa hai đế quốc hùng mạnh nhất bấy giờ là Hittite và Ai Cập. Thời điểm là khoảng năm 1274 TCN, ở vùng bình nguyên Orontes cạnh sông Orontes gần Kadesh. Kadesh nằm giữa Hittite và Ai Cập, có ý nghĩa quan trọng. Khoảng năm 1274 TCN, Pharaoh Ramesses II và vua Hittite Muwatalli II dẫn quân đến sông Orontes. Phía Ai Cập là 2000 chiến xa và 16000 bộ binh, phía Hittite là 3000 chiến xa và 20000 bộ binh. Đồng minh của Hittite bao gồm Pi-da-sa, Da-ar-d(a)-an-ya, Ma-sa, Qa-r(a)-qi-sa, Ru-ka, Arzawa. Muwatalli II triệu tập các đồng minh và điều quân lui về Kadesh. Ramesses đuổi theo vì nghĩ đối phương chạy về Aleppo. Sau khi biết mình bị nhầm, Ramesses đã ngay lập tức triệu tập các đạo quân ở Ptah và Setekh đến. Tuy nhiên Muwatalli II không để Ramesses tập hợp quân. 2500 chiến xa của Hittite đã tấn công các đạo quân Ra và Amon, cướp phá doanh trại quân Ai Cập. Quân Ai Cập tháo chạy, bản thân Ramesses suýt bị bắt, may nhờ đạo quân tiếp viện đến kịp thời. Quân Ai Cập tập trung lại và bao vây quân Hittite nhưng chiến xa của Hittite đã kịp lui về. Muwatalli II kêu gọi đình chiến. Mặc dù hai bên về sau đều tuyên bố thắng lợi nhưng thực tế quân Ai Cập bị tổn thất nặng nề. Kadesh vẫn nằm trong tay Hittite. Ai Cập thì xảy ra nội loạn và Ramesses không thể tiếp tục chiến tranh với Hittite cho đến năm 1269 TCN. Cuộc xung đột kết thúc bằng hiệp ước hòa bình năm 1258 TCN, năm thứ 21 dưới triều vua Ramesses II và vị vua mới của Hittite Hattusili III.
Sự tan rã của đế quốc: Trong khi Muwatalli II giao tranh với quân Ai Cập thì Assyria đã đánh bại Mitanni và ngày càng hùng mạnh. Urhi-Teshub, con trai của Muwatalli II lên ngôi hiệu là Mursili III, nhưng nhanh chóng bị chú mình là Hattusili III lật đổ. Để chống lại sự đe dọa từ Assyria, Hattusili III kí hòa ước với Ai Cập và gả con gái của mình cho Ramesses II. Tudhaliya IV, con trai của Hattusili III là vị vua cuối cùng của Hittite chống lại được Assyria ở Syria. Suppiluliuma II cũng giành được một vài chiến thắng nhưng quá muộn. Hittite bị tấn công từ mọi hướng và Hattusa bị thiêu rụi năm 1180 TCN, kéo theo đó là các cuộc tấn công của Gasgas, Bryges và Luwians. Đế quốc Hittite sụp đổ. Tuy nhiên vẫn còn sót một số vương quốc nhỏ của người Hittite tồn tại ở miền bắc Syria. Song sau này các vương quốc đó đã bị Sargon II của Assyria tiêu diệt vào thế kỷ 8 TCN.
Các triều vua Hittite: Hattic * Pamba * Pithana * Piyusti * Anitta * (Tudhaliya) * (PU-LUGAL-ma) Old Kingdom * Labarna I 1680–1650 * Labarna II (Hattusili I) 1650–1620 * Mursili I 1620–1590 * Hantili I 1590–1560 * Zidanta I 1560–1550 * Ammuna 1550–1530 * Huzziya I 1530–1525 * Telepinu 1525–1500
Middle Kingdom * Alluwamna * Tahurwaili * Hantili II * Zidanta II * Huzziya II * Muwatalli I New Kingdom (Empire) * Tudhaliya I 1430-1400 (?) * Arnuwanda I 1400-1360 (?) * Hattusili II (?) * Tudhaliya II (?)-1344 * Tudhaliya III "the Younger" * Suppiluliuma I 1344-1322 * Arnuwanda II 1322-1321 * Mursili II 1321-1295 * Muwatalli II 1295-1272 * Urshi-Teshub/Mursili III 1272-1267 * Hattusili III 1267-1237 * Tudhaliya IV 1237-1209 (Kurunta 1228/7) * Arnuwanda III 1209-1207 * Suppiluliuma II 1207-1178
Thông điệp:
--*--{ Nếu thấy hay, hãy chia sẽ cho bạn bè mình}--*--